Ngày 11/5/2014, tại Đền thờ liệt sỹ Núi Quế - Anh Linh Đài, các gia đình liệt sỹ đã tổ chức Lễ tưởng niệm 45 năm ngày 40 cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 409 Đặc côngQuân khu 5 hi sinh trong trận tập kích Căn cứ Lữ đoàn 196 Mỹ tại Núi Quế, Quế Sơn, Quảng Nam (11/5/1969 – 11/5/2014)). Ông Khuất Quang Cừ đã có bài Cáo văn tưởng niệm các liệt sĩ đọc tại buổi Lễ. Dưới đây là toàn văn bài Cáo.
TƯỞNG NIỆM CÁC LIỆT SỸ D409
ĐẶC CÔNG QK5
HI SINH TẠI NÚI QUẾ ĐÊM
11/5/1969
Các anh
lên đường theo tiếng gọi non sông,
Từ nhiều
vùng quê củaTổ quốc, đồng lòng.
Anh ra
đi từ Bắc Giang, mượt mà câu quan họ,
Nơi có Hoàng
Hoa Thám khí phách hùng anh;
Anh người
Bình Định, đất thượng võ lưu danh
Những
chiến công lẫy lừng của anh hùng Nguyễn Huệ ;
Anh ra
đi từ Cao bằng, nơi Bác Hồ đặt bước
chân đầu tiên khi trở về đất Mẹ,
Suối Lê
nin, Núi Mác còn in bóng Cha già ;
Anh ra
đi từ quê lụa Hà Tây có Núi Tản,
sông Đà,
Có Ngô
Quyền, với cọc gỗ đánh bại quân Nam Hán ;
Anh ra
đi từ Nghệ An, quê hương của phong
trào cách mạng,
Có Núi Hồng
sông Lam, ví dặm ngọt giọng hò ;
Anh ra
đi từ Ninh Bình, mảnh đất cố đô,
Nơi sáu
đời vua các thời Đinh, Lý, Lê lập nghiệp ;
Quảng Nam quê anh non
xanh biển đẹp,
Hội An, Mỹ Sơn – những danh tiếng vang xa;
Quảng Ngãi quê anh có Núi Ấn sông Trà,
Có thành Châu Sa với trường lũy cổ;
Anh ra đi từ Sơn La, mái nhà
của đồng bằng Bắc bộ,
Cao nguyên Mộc Châu xanh trải rộng đến vô cùng;
Quê anh xứ Thanh, cực bắc của
miền Trung,
Cố đô Lam Kinh còn vang vọng Bình Ngô Đại cáo;
Thái Bình quê anh, biển xanh bên biển
lúa dạt dào
Có di tích Triều Trần nhắc nhớ về nguồn cội.
Bốn mươi anh
Sinh ra lớn lên ở mười một tỉnh thành,
Tập tục quê hương mỗi nơi một khác,
Hoàn cảnh gia đình, tính nết chẳng giống nhau,
Nhưng cùng chung trong huyết quản máu đào
Của dòng dõi Lạc Hồng và truyền thống bốn ngàn năm lịch sử,
Ra đi
Gửi lại quê hương tất cả ân tình
Mẹ yếu, cha già, con thơ, vợ trẻ
Anh, chị, em hay một bóng hồng xinh.
Các anh lên đường, tràn đầy khí thế,
Hẹn ngày về trong chiến thắng quang vinh.
Tạm buông tay cày, tạm gác bút nghiên,
Các anh cùng nhau tay súng luyện rèn,
Tập võ, tập bơi, trèo tường, độn thổ,
Bất động, bò, trườn, chạy, vượt rào gai…
Chẳng quản khó khăn, nắng mưa không ngại
“Đổ mồ hôi hôm nay, bớt máu chảy ngày mai”.
Hình ảnh các anh luyện tập miệt mài,
Chịu khó, chịu thương, chân thành, giản dị
Còn in đậm trong kí ức người dân nơi các anh rèn gan luyện chí:
Hùng Sơn, Hưng Hà, Quế Võ, Nho Quan,
Mai Siu,
Xuân Mai, Sơn Tây, Vạn Thắng…
Bát nước
chè xanh những ngày nóng nắng,
Khoai luộc,
bắp lùi những lúc trăng thanh,
Tình
quân dân đậm đà, đằm thắm,
Để lòng
ai nguôi vợi nỗi nhớ nhà.
Đến một ngày
Theo lệnh
trên, sau ba ngày phép
Các anh
lên đường ra mặt trận phía Nam.
Những lời yêu thương, những việc muốn làm,…
Chưa kịp,
Nén dồn
thành nguồn sức mạnh trong tim
Chia tay không hề rơi nước mắt,
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt.
***
Những con tàu từ ga Bạch Hạc,
Ga Sen Hồ, ga Thường Tín, ga Gềnh…,
Đưa các anh đếnVinh, điểm dừng chân tập kết,
Những người lính khác dáng hình,
khác nết
Khác mẹ khác cha, quê cũng chẳng cùng,
Nay mang tên chung “người chiến sĩ đặc công”,
Và trở thành huynh đệ,
Không rượu đào, không nguyện thề câu nệ,
Chỉ có trong lòng nghĩa nặng tình thâm,
Biển rộng, non cao, trời xanh chứng giám.
Vậy là,
Cuộc hành quân khởi đầu từ quê Bác,
Tưởng như vẫn nghe nơi Làng Sen lời tuyên thệ vọng vang.
Và vẫn thấy dọc dài theo dải đất miền Trung
Hình ảnh đoàn quân
Ba lô trên lưng, trèo đèo, lội suối
Vượt mọi gian lao vì Tổ quốc, đồng bào.
Có hôm,
Đêm, rừng sâu, xoong cơm nấu vội,
Dưới ánh lửa chập chờn sáng tối,
Ngỡ được ăn cơm gạo mới trộn đỗ đen
Sáng ra nhìn xoong nước lấy trong đêm,
Thấy ngoe nguẩy mấy con nòng nọc!(1)
Có những ngày,
Trên trời máy bay Mỹ lượn ngang chao dọc,
Xung quanh rình rập quân do thám Cộng hòa,
Phải ém quân nơi rú thẳm, rừng già,
Nước suối, lương khô mấy ngày liền lót dạ.
Có khi
Để tránh hỏa lực địch phải hành quân hối hả,
Phải đi vòng, nhờ nước bạn chở che,
Ngày tháng thoi đưa, Tết đến xuân về,
Đón giao thừa giữa rừng nơi biên ải,
Nhớ quê nhà… thêm nỗi nhớ về ai …
***
Sau bao tháng ngày hành quân gian lao miết mải
Các anh tới Trà My - căn cứ của Tiểu đoàn 409 đặc công
Của những chiến sĩ vai sắt chân đồng,
Vào cuộc chiến chỉ với chiếc quần xà-lỏn,
Và màu da hòa lẫn với thiên nhiên :
Khi là màu đen của lá nhọ nồi trộn lá khoai lang
Lúc là màu xanh của lá cành, cây cỏ;
Những người lính có ý chí thép và tinh thần thượng võ,
Trận đánh ngày Mười Một
tháng Năm nămSáu Chín
Hôm ấy
Tiểu đoàn Bốn lẻ chín nhận lệnh xuất quân
Cuộc tập kích khác lệch về trận thế:
Cứ điểm Mỹ nằm cao trên Núi Quế,
Bao quanh nào là công sự, hàng rào,
Ra đa, đèn pha chiếu rọi trên cao
Mìn định hướng, mìn sát thương dày đặc,
Lô cốt, hầm ngầm, chó nghiệp vụ béc-giê;
Với tất cả hơn ngàn tên lính Mỹ
Được đào tạo qua các trường võ bị,
Trang bị “tận răng” vũ khí tối tân.
Còn các anh, những người lính “nông dân”,
(Nhiều anh là lính trẻ, lần đầu xung trận)
Hỏa lực chỉ có B41, B40,
Kèm thủ pháo, lựu đạn giắt quanh người
Sức mạnh của các anh hun đúc từ lòng yêu nước,
Từ mối thâm thù quân xâm lược,
Lòng quyết tâm và chí khí anh hào.
Buổi chiều
Đội Một tập trung nghe nhiệm vụ trên giao
Sáu mươi sáu anh chia thành sáu mũi
Tập kích vào các vị trí khác nhau:
Mũi Một của anh Huỳnh Sơn đánh vào Lữ Bộ;
Anh Hùng chỉ huy Mũi Hai đánh kho bãi Hậu cần;
Mũi Ba của anh Thiệu phải làm tê liệt
Khu Ra đa và hệ thống truyền tin;
Sở Chỉ huy của Tiểu đoàn Bộ binh
Là mục tiêu của Mũi Bốn do anh Trưa phụ trách;
Để hỗ trợ Mũi Bốn và chặn xe tiếp ứng
Anh Xý dẫn Mũi Năm đánh úp sườn Bắc Sở Chỉ huy;
Mũi Sáu, anh Danh là mũi trưởng,
Có nhiệm vụ đánh vào Hòn Một tiền tiêu.
Chiều tối
Thời gian đến giờ G chẳng còn nhiều,
Các anh chia nhau nắm cơm vắt vội,
Siết chặt tay nhau trước cuộc chiến cam go,
Trao nhau những lời dặn dò không kiêng kị, vòng vo:
“ Nếu tao không về nhớ tìm gặp mẹ
Ngoan như mày mẹ sẽ gả em cho”.
“Hãy kể với người yêu tao rằng tao nhớ thế nào
Nếu có thể hãy chăm sóc cho cô ấy.”
Hai mươi mốt giờ
Sau khi hóa trang và nghe truyền mật lệnh,
Các mũi triển khai tiếp cận mục tiêu đã định
Tất cả diễn ra
Như kế hoạch ban đầu…
Cho đến khi
Cửa mở vừa qua, bỗng từ xa vang lên tiếng súng,
Tưởng bị tấn công, địch vội vàng báo động
Xả súng M79, cối 81, cối 60,
Cả Núi Quế sáng rực đất trời,
Đạn xối như mưa, xe tăng quần thảo,
Máy bay trực thăng gầm rú trên không.
Mặc! Các anh vẫn anh dũng tiến công
Sẵn sàng hi sinh đến giọt máu cuối cùng.
Trong trận ấy,
Các anh diệt gần ba trăm tên lính Mỹ,
Phá hủy gần một trăm nhà và lô cốt, hầm ngầm,
Cùng nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.
Nhưng, đau xót thay:
Bốn mươi anh mãi nằm lại đất này!
Năm 1975
Đất nước trọn niềm vui thống nhất
Bao gia đình vui niềm vui đoàn tụ,
Đón người thân từ chiến trận trở về.
Gia đình các anh cũng hi vọng tràn trề:
Cha mẹ vẫn đêm ngày trông ngóng,
Anh chị vẫn đợi em, con vẫn chờ cha và vợ vẫn mong chồng…
Nhưng than ôi, sự thật phũ phàng:
Các anh đã hy sinh, giặc gom mất xác!
Tất cả người thân lòng đau quặn thắt
Tìm kiếm bao năm, ra Bắc vào Nam
Cậy nhờ Âm-Dương, nhưng không thấy
được nơi chốn các anh nằm.
Chưa thấy các anh, lòng nặng nhớ thương
Vợ con, anh chị em các anh lại
không quản đường trường
Rừng rậm, núi cao, khó khăn vất vả,
Bao tháng năm, Nam - Bắc, vào -ra
Cậy nhờ Âm-Dương vẫn không thấy
được các thi hài các anh thất lạc.
Năm tháng trôi nhưng lòng ghi dạ tạc
Lời trối trăng của cha mẹ, ông bà,
Cháu con các anh lại lên đường vào Nam ra Bắc,
Cậy nhờ Âm-Dương, vẫn không tìm
được chú bác, ông cha.
Mùa Xuân năm 2012
Sau mấy chục năm kiếm tìm vô vọng,
Tất cả các gia đình hiệp lực đồng lòng,
Xây Đền thờ tưởng niệm Linh vong.
Ngày Mười một tháng Năm năm Hai ngàn mười hai
Khánh thành Đền thờ liệt sĩ - Anh Linh Đài.
Trên Núi Quế, một phương đình tám mái,
Là ngôi nhà chung - chốn đi về của các anh.
Bia đá kia sẽ còn mãi với sử xanh:
Anh Linh Đài dấu tích một chiến công!
Từ nay, gia đình cháu con các anh vơi bớt nỗi lòng:
Các anh không còn vô danh, vô mộ,
Ngày kị các anh đã có nơi bày tỏ
Lòng nhớ thương qua nén tâm nhang.
Thưa các anh,
Bốn mươi ba năm sau mới trả tên cho các anh quả là quá muộn màng,
Chúng tôi, vợ con, anh chị em, cháu chắt đồng lòng sám hối.
Mong các anh sống khôn chết thiêng đưa đường chỉ lối,
Để chúng tôi thấy được nơi phần xác các anh nằm,
Dù tất cả nay đã thành cát bụi,
Hòa vào trong lòng đất Quảng Nam,
Dù không thể xác định danh tính các anh qua những mảnh xương tàn
Thì cha mẹ, vợ con, anh chị em, cháu chắt các anh cũng bớt phần trăn trở.
Cũng xin thưa để các anh được biết,
Còn hai mẹ già nơi quê nhà mong nhớ các con,
Thân mẫu anh Huy chín mươi bảy tuổi,
Thân mẫu anh Năm một trăm linh tám tuổi tròn.
Các mẹ vẫn dẻo chân tay, thính tai, tinh mắt,
Nhắc đến tên các anh lệ vẫn lưng tròng.
Có bốn mẹ được truy phong Mẹ Việt
Nam Anh hùng,(2)
Là thân mẫu của anh Rựng, anh Phầu, anh Hòa, anh Sản.
Với các anh khi ra đi đã thành gia thất,
Các chị ở nhà trọn đạo làm dâu,
Một dạ thờ chồng, nuôi dạy cháu con, xây dựng gia đình lớn mạnh.
Thưa các anh,
Anh, chị, em, con cháu các anh nay hầu hết đã đông cành dài nhánh,
Hưởng tự do, sống hạnh phúc, an lành
Như những gì khi ra đi các anh đã hằng mong.
Nhưng chúng tôi
Vẫn còn những điểu canh cánh trong lòng:
Bởi có những anh, người thân chưa tìm thấy
Hay người thân không có mặt hôm nay
Các anh ơi, xin đừng buồn, đừng giận,
Chúng tôi giờ đây đã là những người thân
Mỗi nén tâm nhang, lời thỉnh nguyện tâm tình
Của mỗi thân nhân là dành cho tất cả các Anh Linh.
Thưa các anh,
Hôm nay, Mười Một tháng Năm năm Hai nghìn không trăm mười bốn,
Để tưởng nhớ ngày bốn mươi lăm năm trước đây các anh ngã xuống,
Vợ con, anh chị em, cháu chắt các anh tụ họp về đây,
Bạn bè đồng đội các anh cũng có mặt chốn này,
Tại Anh Linh Đài trên Núi Quế
Tất cả nghiêng mình dâng nén tâm nhang,
Tỏ lòng nhớ nhung tiếc thương vô
hạn.
Tất cả người thân, đồng đội cùng bè bạn
Nhất tâm cầu thỉnh
Cho các chân linh được siêu thoát, siêu sinh.
Sống, các anh đã vì nước quên mình,
Thác, hồn thiêng các anh vẫn ngàn thu vệ quốc.
Chúng tôi nguyện sẽ vì quê hương đất nước
Vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc gia đình
Tất cả các thân nhân đoàn kết, chân tình
Như các anh dưới mái phương đình gắn kết.
Một nén tâm nhang, Một tấm lòng thành.
Xin các anh hãy ngậm cười
nơi chín suối!
Cẩn cáo.
Núi Quế, Quế Sơn, Quảng Nam, ngày 11/5/2014
(1)Chuyện xảy ra ở tổ 3 người Chu Đăng Khoa, Lê Văn Thảo, Khuất Quang Phiệt trên đường hành quân.
(2)Hiện nay là 5 mẹ,
thân mẫu liệt sỹ Tạ Văn Bung mới được truy phong năm 2017.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét